Hướng dẫn làm bài
* Từ 1945 – 1954:
+ Từ 1941 – 1946: Mĩ giúp lực lượng Việt Minh chống Nhật. Cách mạng Tháng Tám thành công, Mĩ có đại diện tại Hà Nội.
+ Từ 1946 – 1954: Mĩ giúp Pháp mở rộng và kéo dài chiến tranh Đông Dương.
+ Năm 1949, Mĩ giúp Pháp thực hiện kế hoạch Rơve, khoá chặt biên giới Việt Trung, lập hành lang Đông – Tây.
+ Tháng 12/1950, lập phái đoàn cố vấn Viện trợ quân sự (MAAG): Năm 1950, viện trợ Mĩ
chiếm 19% ngân sách chiến tranh Đông Dương, 1952 là 35%, 1953 là 42%.
+ Mĩ giúp Pháp thực hiện kế hoạch Nava, xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, viện trợ
khi Điện Biên Phủ sắp thất bại.
- Trì hoãn, kéo dài Hội nghị Giơnevơ, không kí vào văn bản Hiệp định Giơnevơ.
* Từ 1954 – 1975:
- Phá hoại Hiệp định Giơnevơ, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
Mĩ.
+ Ngày 25/6/1954, trước khi kí Hiệp định Giơnevơ, Mĩ đã đưa Ngô Đình Diệm là người do Mĩ
đào tạo nắm chính quyền ở miền Nam.
+ Ngày 23/7/1954, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đalét tuyên bố: Không mở đường cho chủ nghĩa
Cộng sản bành trướng xuống Đông á và Thái Bình Dương.
+ Mĩ giúp Diệm tổ chức "trưng cầu dân ý", bầu cử "quốc hội", hợp pháp hoá chính quyền Ngô Đình Diệm, xây dựng ở miền Nam một chính quyền đối lập với chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà trái với tinh thần Hiệp định Giơnevơ.
+ Tháng 7/1956, Ngô Đình Diệm cự tuyệt hiệp thương với miền Bắc nhằm tìm kiếm việc thống nhất đất nước.
- Thực hiện các chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam.
+ Từ 1954 – 1960: Thực hiện chiến lược "chiến tranh một phía", thông qua viện trợ kinh tế điều khiển chính quyền tay sai đàn áp phong trào cách mạng miền Nam.
+ Từ 1961 – 1965: Thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đưa cố vấn quân sự vào miền
Nam Việt Nam để trực tiếp điều kiển cuộc chiến, thực hiện kế hoạch Xtalây –Taylo.
+ Từ 1965 – 1968: Thực hiện chiến lược: "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đưa quân Mĩ và quân chư hầu trực tiếp tham chiến cùng với quân Ngụy; gây chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với miền Bắc.
+ Từ 1969 – 1973: Mĩ thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh, thay quân Mĩ bằng quân Nguỵ, hỗ trợ nguỵ về hoả lực, gây chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc.
+ Ngày 21/1/1973, Mĩ kí hiệp định Pari công nhận độc lập thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, cam kết rút hết quân Mĩ về nước.
+ Từ 1973 đến 1975, Mĩ vẫn tiếp tục viện trợ cho Thiệu mà thực chất là tiếp tục "Việt Nam hoá" chiến tranh.
+ Với Đại thắng mùa Xuân 1975 của nhân dân ta, chính sách đối ngoại của Mĩ đối với Việt Nam từ 1954 – 1975 bị thất bại hoàn toàn.
e Nhìn chung, những năm 80 trở về trước (1954 – 1975) quan hệ Việt - Mĩ là đối đầu do sự xâm lược Đông Dương của Mĩ. Nhân dân Việt Nam quyết tâm : “Đánh thắng giặc Mĩ xâm lược” bởi gì “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
* Sau khi chiến tranh Đông Dương kết thúc : (Từ thập niên 80 đến nay)
- Sau khi chiến tranh kết thúc, Mĩ dùng chiến tranh lạnh tiếp tục chống lại Việt Nam như không có quan hệ bình thường, cô lập về ngoại giao, bao vây, cấm vận không cho Việt Nam có điều kiện phát triển.
- Trong những năm gần đây quan hệ quốc tế đã thay đổi, vì vậy quan hệ giữa Mĩ và Việt nam đã có những bước chuyển biến tốt đẹp từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác.Từ năm 1989, do chính sách đúng đắn của Việt Nam (Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam "là bạn của tất cả các nước", với Mĩ ta chủ trương "khép lại quá khứ hướng tới tương lai"), cuộc đấu tranh của nhân dân Mĩ và dư luận thế giới, Mĩ đã cải thiện quan hệ với Việt Nam : bình thường hoá quan hệ, xoá cấm vận song vẫn tiến hành chiến lược diễn biến hoà bình
- Sự kiện thể hiện 1 bước tiến của Mĩ trong việc đã bình thường hoá quan hệ tiêu biểu như hợp tác với Việt Nam, đặt đại sứ quán tại Việt Nam, tham gia các chương trình hợp tác nhân đạo (cử bác sĩ giỏi sang phẫu thuật vì nụ cười trẻ thơ Việt nam: có trên 100 em được phẫu thuật).
- Sự kiện nổi bật nhất là ngày 16/11 và 19/11/2000 Tổng thống Mĩ Bill Clinton cùng phái đoàn chính phủ Mĩ sang thăm Việt nam, quan hệ Việt – Mĩ có xu hướng ngày càng tốt đẹp